Buổi sáng ở Hội An: Những khoảnh khắc bình dị giữa lòng phố cổ
Thường đến gần bảy giờ sáng, đường phố Hội An vẫn thưa thớt, hầu như chỉ có những người lao động lam lũ qua lại. Họ bán báo, bán chuối, bán bắp… Tiếng bước chân họ hòa cùng tiếng rít nhẹ của bánh xe trên mặt đường ẩm ướt, như một bản nhạc dạo đầu cho ngày mới. Không vội vã, không ồn ào, chỉ có sự hiện diện cần mẫn của những con người sống bằng lao động tay chân, như thể họ chính là linh hồn giữ nhịp sống cho Phố Cổ mỗi sớm mai.

Sáng sớm. Hội An khá yên tĩnh. Trời mưa lâm thâm, phố xá thưa thớt. Nhưng một số em học sinh đã đi đến trường, áo trắng cặp sách, bước đi nhanh hơn bình thường để tránh những giọt mưa nhỏ rơi trên tóc. Một vài người ngồi uống cà phê ở ngã tư Phan Châu Trinh – Nguyễn Huệ, nép dưới mái hiên, vừa nhâm nhi ly cà phê sữa nóng vừa nhìn ra đường, ánh mắt lặng lẽ như đang ngẫm nghĩ chuyện đời. Thỉnh thoảng lại thấy một người chạy xe gắn máy chở hàng ra chợ Hội An, tiếng máy xe vang lên rồi tắt lịm sau góc phố.
Nhiều đường của Phố Cổ yên tĩnh suốt cả ngày. Không chỉ buổi sáng, mà dường như suốt cả một ngày dài, Hội An vẫn giữ được vẻ trầm mặc hiếm có. Những bước chân du khách cũng như lặng hơn ở đây, như bị cuốn vào sự tĩnh lặng cổ kính mà nơi khác không thể có được.
Của buôn bán lề đường
Hầu như chưa có hàng quán lớn nào mở cửa. Trên lề đường Nguyễn Huệ gần chợ, một vài người đang dọn ra nào rau quả, bánh đậu xanh khô, bánh thuẫn (các đặc sản Phố Cổ) và kẹo dừa. Họ trải từng tấm vải, sắp từng món hàng nhỏ gọn, tất cả đều được chuẩn bị tỉ mỉ, gọn gàng như một nghi thức đã thuộc lòng.
Cũng trên lề đường, một phụ nữ đang bày hàng gốm, chuẩn bị đón khách. Chị cho biết mình tên Đặng Thị Thông, năm nay 41 tuổi, có đến… 11 đứa con và buôn bán ở đây đã được 18 năm. Chị bán nhiều loại đồ gốm lưu niệm, trong đó có 12 con giáp, rỗng ruột, có lỗ để thổi như còi. Những món đồ nhỏ, ngộ nghĩnh, nhiều màu sắc, rất được du khách ưa chuộng, đặc biệt là khách nước ngoài. Chị còn bán cả tượng Apsara của người Chăm, cư dân đông đảo nhất vùng đất này trước đây. Và tượng chú bé đứng tè nổi tiếng của Bỉ. Quả là Đông Tây giao hòa. Trong lòng một góc phố Hội An nhỏ bé, văn hóa khắp nơi cùng hiện diện qua những món đồ gốm thủ công mộc mạc.
Chị Thông cho biết khách mua hàng, Tây Ta đủ cả. Khách nước ngoài mua nhiều vào mùa đông, tức từ tháng 8 đến tháng 12. Người Việt mua nhiều vào dịp Tết. Đó là thời điểm ai cũng muốn tìm một món quà đặc biệt, có dấu ấn văn hóa để mang về làm kỷ niệm.
Chị nói mình lấy hàng ở làng gốm Thanh Hà, cách trung tâm Hội An chừng 5-7 phút đi xe gắn máy. Từ khoảng 500 năm trước, ngôi làng này đã chuyên nghề gốm, từng có thời kỳ cực thịnh, nổi tiếng với các đồ gốm và đất nung được bán khắp miền Trung. Sau đó nghề này dần bị lãng quên và mai một. Tuy nhiên, chừng gần 20 năm nay, nhờ khách du lịch, nó đã được khôi phục. Những bàn tay lành nghề lại thổi hồn vào đất sét, tạo ra những sản phẩm vừa mang tính ứng dụng, vừa đậm chất nghệ thuật dân gian.
Chị chia sẻ thêm: “Đây là nghề truyền thống nên chính quyền Hội An mới cho bán trên vỉa hè. Có năm người nữa bán với tôi. Mỗi tháng mỗi người chỉ phải đóng thuế 100.000 đồng.” Một khoản phí rất nhỏ so với sự hiện diện đầy ý nghĩa của những gánh hàng nhỏ ven đường, vốn tạo nên nét duyên rất riêng cho Hội An.
Lại tiếp tục đi, xuống chợ Hội An (được trùng tu năm 2011). Trước cửa chợ, những năm gần đây có một gánh mì Quảng rất ngon. Mỗi khi về Phố Cổ, hầu như sáng nào tôi cũng đều ghé ăn. Nhưng giờ không thấy nữa, vì chỗ này nay chính quyền đã cấm buôn bán. Một chút tiếc nuối len nhẹ vào lòng. Mùi mì Quảng còn như thoảng trong ký ức, gợi nhớ một Hội An xưa cũ, mộc mạc và gần gũi.
Trước cửa chợ vẫn còn một cái giếng, mái che lợp ngói vẩy cá đỡ bằng cột gỗ. Người địa phương gọi nó là giếng Máy vì có ròng rọc thả gầu và kéo nước lên như… máy, dẫu không dùng động cơ. Tại đây, ai ai cũng có thể múc nước để dùng. Không biết giếng xuất hiện từ khi nào mà lòng giếng bám đầy rêu xanh; nước dâng cao, cách miệng giếng chừng hai mét. Giếng như một chứng nhân thầm lặng cho bao đổi thay của khu chợ và của cả Hội An.
Của người cần lao
Phố Cổ sáng sớm dường như thuộc về những người lao động lam lũ. Ông Nguyễn Đường, đã 82 tuổi, nhưng hằng ngày vẫn gánh nước thuê trong Phố. Ông cho biết mình làm công việc này đã gần 40 năm rồi; mỗi đôi nước được trả công 5.000 đồng, cũng có người thương tình cho thêm. Gia đình ông không thuộc hộ nghèo. Nhưng nhìn ông gánh từng thùng nước nặng, trên thân hình đã gầy gò và tấm lưng còng xuống theo năm tháng, người ta không khỏi chạnh lòng.
Theo quy định của Chính phủ Việt Nam về chuẩn hộ nghèo thành thị giai đoạn 2011-2015, hộ nghèo là hộ mà thu nhập bình quân của mỗi cá nhân trong hộ phải dưới 500.000 đồng/tháng. Đúng là gia đình ông Đường đang “kinh doanh vận tải”. Con trai ông bị tâm thần nhẹ, cũng đi gánh nước, kiếm hơn 1.000.000 đồng/tháng. Nhưng nói gì thì nói, tuổi trên 80 như ông mà vẫn phải kinh doanh vất vả như thế thì thiệt quá tội.
Ông Đường nói rằng ông lấy nước từ giếng Bá Lễ chứ không phải giếng Máy. Giếng tên Bá Lễ vì do một người phụ nữ cùng tên bỏ tiền ra để trùng tu trước đây, trong thời Pháp thuộc (không ai nhớ rõ năm nào). Câu chuyện truyền miệng ấy giờ chỉ còn lại qua vài lời kể chắp nối.
Nước giếng Bá Lễ chuyên được dùng để làm bánh phở, bánh cao lầu, pha cà phê. Nó chưa bao giờ được dùng cho tắm táp hoặc giặt giũ. Người Hội An cho rằng nước giếng – không phèn, mát lạnh, sẽ làm cho món ăn thêm ngon. Một số khách du lịch, khi thăm Phố Cổ, đã tìm đến đây, uống một ngụm để thưởng thức hương vị của nó. Một hành động nhỏ, nhưng thể hiện sự tò mò, sự trân trọng văn hóa ẩm thực bản địa một cách lặng lẽ mà sâu sắc.
Đã đến gần 7 giờ, đường phố vẫn thưa thớt. Hầu như chỉ có những người lao động như ông Đường qua lại. Đó là những người bán báo, bán chuối, bán bắp… Không cần tiếng loa rộn ràng hay tiếng xe hối hả, những bước chân ấy vẫn đang duy trì nhịp sống bền bỉ cho phố cổ mỗi sớm mai.
Lại tiếp tục đi trên đường Trần Phú về hướng chùa Cầu. Nhiều căn nhà cổ gần chợ trồng cây bông giấy trên cao chìa ra cả ngoài đường. Những chùm hoa hồng rực, tím ngắt đung đưa trong mưa nhẹ như tấm rèm thiên nhiên nhuộm màu cổ tích cho phố.
Đường Trần Phú có nhiều nhà cổ. Nhưng thỉnh thoảng lại thấy chen vài ngôi nhà cửa sắt, một lầu, đúc bê tông, như nhà số 84 và 86, nhà số 92 và 94. Theo ông Hoàng Duy, nhà báo tại Hội An, những căn nhà này trước đây cũng cổ, nhưng có lẽ bị hư hại nhiều nên các chủ nhà đã xây lại, từ trước năm 1975. Sau năm đó, không có nhà kiểu bê tông được xây trong Phố Cổ.
Hiện nay, trong Phố Cổ có khoảng 20 căn nhà như thế. Chủ hộ đã được vận động xây dựng lại nhà theo kiểu cổ. Nhưng chắc họ không muốn vì nhà kiểu bê tông, kéo cửa sắt mặt tiền rộng rãi, tự kinh doanh hoặc cho thuê đều tiện lợi. Hoặc muốn nhưng lực bất tòng tâm: trùng tu một nhà cổ với các cấu kiện gỗ phải tốn rất nhiều tiền. Việc gìn giữ kiến trúc di sản đôi khi không chỉ là ý thức mà còn là câu chuyện kinh tế.
Trên đường Trần Phú, ngoài các cửa hàng bán đồ lưu niệm, vải vóc còn có một số hàng quán. Bên kia đường, đối diện xéo với các căn nhà cửa sắt, có quán cao lầu Trung Bắc khá nổi tiếng. Ngày trước quán chỉ bán cao lầu, còn giờ thì có thêm nhiều món như hoành thánh, bánh bao, bánh vạc, bánh xèo, cơm gà… và cả… pizza và spaghetti. Hẳn do phải chiều ý khách du lịch. Một quán nhỏ thôi, nhưng như tấm gương phản chiếu sự thích nghi của ẩm thực phố cổ giữa làn sóng toàn cầu hóa.
Cao lầu là một món ăn đặc trưng của người Phố Cổ. Nó gồm sợi mì dai màu vàng, ăn với thịt heo xá xíu, rau sống và một ít nước dùng. Sợi mì được làm từ gạo với nước giếng Bá Lễ và tro của cây tràm ở cù lao Chàm. Phải ngâm, xay, ép, luộc, nhồi, cán, hấp, cắt mới ra sợi mì. Quả rất đặc biệt, công phu và khó làm. Cũng chính vì thế mà món ăn này trở thành di sản ẩm thực – không chỉ là món ăn mà là tinh thần, là công sức của người Hội An qua bao thế hệ.
Thực ra, giờ đã có người Hội An ở Gò Vấp, TP.HCM sản xuất sợi mì này nhưng với… nước của nhà máy nước Thủ Đức. Dù cố gắng hết sức, họ vẫn chưa tái tạo được cái hương vị rất riêng của sợi mì Hội An – cái hồn nằm trong nguồn nước cổ xưa.
Vẫn chưa được chuẩn
“Phố đi bộ và xe thô sơ” tại Hội An nay được dịch là “Walking and Cycling Town”. Cách dịch này tương đối khá hơn một chút so với trước đây: “Walking street and primitive vehicle”. Tuy nhiên, muốn chuẩn hơn thì nên sửa thành “Pedestrians and Non-Motorized Vehicles Only” hoặc “This Street for Pedestrians and Non-Motorized Vehicles Only”.
Ngoài chuyện dịch chưa chuẩn nói trên, Hội An còn nhiều nơi dùng tiếng Anh ngô nghê, thậm chí sai sót như tại các khách sạn, Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh, Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch. Và cả công viên lưu niệm ông Kazik, một kiến trúc sư Ba Lan quá cố có công lớn trong bảo tồn, phát huy vốn cổ của Hội An cùng Khu Di tích Tháp Chăm Mỹ Sơn.
Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh được cho nâng cấp. Đây là cơ hội này, chắc nên “nâng cấp” luôn cả chữ nghĩa – tiếng Anh lẫn tiếng Pháp vì tiếng Pháp ở đây cũng bị viết… sai. Hội An là nơi đón hàng triệu lượt khách nước ngoài mỗi năm, và ngôn ngữ chính là cầu nối văn hóa đầu tiên. Giữ gìn di sản, không chỉ là giữ kiến trúc hay món ăn, mà còn là giữ cả những câu chữ – cho đúng, cho hay và cho đẹp.
